HỒ CHÍ MINH – NHÀ NGHỆ THUẬT LỚN
-----
(Thanhuytphcm.vn) - Năm 1968, đạo diễn, nhà điện ảnh người Hà Lan Joris Ivens (1898 – 1989), tác giả bộ phim Vĩ tuyến 17 sau đó đoạt giải thưởng quốc tế Hòa bình Lenin, sang thăm Việt Nam và được Bác Hồ tiếp… Từ năm 1922 tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia Hội Những người yêu nghệ thuật và đã biết đến Joris Ivens. Trong buổi gặp gỡ tại Hà Nội đó, Bác đã cùng Joris Ivens ôn lại những kỷ niệm gần nửa thế kỷ trước…
Năm 1922, Joris Ivens trình làng phim Tư bản và tôn giáo. Cuốn phim vạch mặt bọn phong kiến trước đây lợi dụng tôn giáo để áp bức, bóc lột. Bây giờ, bọn tư bản cũng làm như vậy; chúng dùng tôn giáo để đi chiếm thị trường, cướp đất làm thuộc địa. Vua Hà Lan lúc đó rất bực tức với cuốn phim này nên ra lệnh trục xuất nhà làm phim trẻ ra khỏi đất nước. Còn bọn tư bản thì tập trung đả kích ông. Trong lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc đã viết bài đăng trên tờ L’Humanité (Nhân đạo) bênh vực cuốn phim và chống lại các luận điệu vu cáo của bọn tư bản… Khi trở về Pháp, Joris Ivens đã tìm đọc các bài viết này sau đó cảm động nói: “Đồng chí Hồ Chí Minh không những là một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà chính trị thiên tài mà còn là một nhà nghệ thuật lớn, vì những bài báo đồng chí viết tháng 6/1922 chúng tôi đem ra so sánh có nhiều người trên thế giới hiện nay viết về nghệ thuật của tôi chưa đánh giá được như đồng chí Hồ Chí Minh bấy giờ”…[1].
Nhận xét của Joris Ivens về Hồ Chí Minh là “một nhà nghệ thuật lớn” thực sự rất sâu sắc. Chúng ta đều biết, từ thập niên 1920 cho đến cuối đời, dù là một nhà cách mạng, một nhà chính trị nhưng Người cũng đã hoạt động rất sôi nổi trên lĩnh vực báo chí, nghệ thuật.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, các áng văn chính luận của Hồ Chí Minh thực sự là lĩnh vực nổi bật, được sáng tác từ những năm 1920 ở Pháp, trên các tờ báo Pháp với bút danh Nguyễn Ái Quốc cùng nhiều bài văn chính luận viết từ lúc về nước. Văn chính luận Hồ Chí Minh sáng tác chủ yếu với mục đích đấu tranh chính trị, phục vụ sự nghiệp cách mạng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của đất nước trong từng giai đoạn. Những tác phẩm chính luận của Người thường đánh dấu những sự kiện trọng đại của dân tộc và phục vụ đường lối, chủ trương của cách mạng và do đó mang tính chiến đấu rất cao. Một số tác phẩm tiêu biểu như Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Không có gì quý hơn độc lập tự do, Di chúc…
Chẳng hạn, Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản tại Pháp năm 1925, gồm 12 chương và 1 phụ lục có tính chất là thiên phóng sự điều tra quy mô về tội ác của thực dân Pháp ở các nước Á - Phi, về nỗi thống khổ của nhân dân ở các xứ thuộc địa. Mỗi chương sách tố cáo nhiều tội ác của chủ nghĩa thực dân gây ra bao đau khổ cho người dân bị cai trị, trong đó có dân tộc Việt Nam, như các chương Thuế máu, Việc đầu độc người bản xứ, Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị, Bóc lột bản xứ, Chính sách ngu dân... Đặc biệt, nhiều người cho là xúc động nhất là chương XI mang tên Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ, với những minh chứng cụ thể về thủ đoạn độc ác, mất nhân tính của chủ nghĩa thực dân. Đây là tập hồ sơ vạch trần bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của chủ nghĩa thực dân, đồng thời chỉ ra con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn của nhân dân thuộc địa để thoát khỏi áp bức. Văn phong rõ ràng, đanh thép; vừa hài hước, mỉa mai, vừa xót xa, nghẹn ngào, đau đớn khi viết về nỗi khổ nhục của người dân thuộc địa... Tác phẩm kết thúc bằng lời kêu gọi đầy khẩn thiết, xót xa: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên sớm già của Người không sớm hồi sinh!”.
Truyện và ký cũng là lĩnh vực đặc sắc của Hồ Chí Minh, được Người viết bằng tiếng Pháp từ những năm 1920 ở Pháp và một số tác phẩm rải rác sau này. Tác phẩm tiêu biểu phải kể đến là tập Truyện và ký, bao gồm những sáng tác viết và đăng báo ở Pháp, chủ yếu là báo L’Humanité. Tuy nhiên, mãi đến năm 1974 một số truyện và ký của Người mới được GS Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu ở Việt Nam.
Truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc được sáng tác chủ yếu với mục đích phục vụ cuộc đấu tranh cách mạng, những nhiệm vụ chính trị của đất nước. Những tác phẩm tiêu biểu như truyện Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Con người biết mùi hun khói, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Đoàn kết giai cấp, Paris… Các tác phẩm này thường ngắn gọn, cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo, ý tưởng sâu sắc, giàu chất trí tuệ và mang tính hiện đại, thể hiện rõ lối viết theo bút pháp văn phong phương Tây. Bút pháp sở trường của Người là châm biếm và đả kích, tạo ra nụ cười vừa hóm hỉnh vừa sâu cay. GS Phạm Huy Thông đã nhận xét: “Hồ Chủ tịch đã viết Nhật ký trong tù bằng chữ Hán với phong cách Đường Tống thì cũng viết những truyện và ký bằng tiếng Pháp này như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp”. Ngoài ra, còn phải kể tới những tác phẩm Người viết rải rác như Nhật ký chìm tàu (1931), Giấc ngủ 10 năm (1949), Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963)...
Lĩnh vực thơ ca của Hồ Chí Minh có khoảng 250 bài thơ, trong đó có hơn 140 bài thơ chữ Hán, sau này được in trong các tập: Nhật ký trong tù, Thơ Hồ Chí Minh, Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh. Thơ ca được Hồ Chí Minh sáng tác chủ yếu từ khi về nước (1941) cho tới cuối đời, viết bằng tiếng Hán và tiếng Việt.
Tiêu biểu cho sáng tác trước năm 1945 là tập Nhật ký trong tù được sáng tác từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943 khi Người bị bắt giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây (Trung Quốc). Đây là cuốn nhật ký bằng thơ được viết theo nhiều bút pháp: tả thực lẫn trữ tình, hướng ngoại lẫn hướng nội, hiện thực lẫn lãng mạn, hài hước, tự trào lẫn mỉa mai, châm biếm… Ngoài giá trị lịch sử, tập thơ còn có giá trị hiện thực khi tái hiện bức tranh về chế độ nhà tù bất công, vô nhân đạo thời Tưởng Giới Thạch. Nhật ký trong tù cũng là bức chân dung tự họa về tác giả: là một người yêu nước, thiết tha hướng về Tổ quốc, có tình yêu thương con người; là người yêu thương nhân loại sâu sắc, thể hiện dũng khí lớn; là người thể hiện chất thép ngời sáng, là ý chí kiên định, nghị lực lớn lao, bền bỉ, phi thường, một bản lĩnh và khí phách hiên ngang, bất khuất… Nhà thơ Trung Quốc Quách Mạt Nhược (1892 – 1978) từng nhận xét, nhiều bài thơ trong tập Nhật ký trong tù nếu đặt chung với thơ Đường thơ Tống cũng không phân biệt được. Ông còn nói, hơn 2.000 chữ trong tập thơ chỉ có một chữ “thép”; đọc kỹ thấy bài nào cũng có thép, câu nào cũng có thép, vì người làm thơ có một tinh thần thép rất chắc chắn...
Bên cạnh đó, thơ ca Hồ Chí Minh còn chùm những bài ca tuyên truyền, vận động cách mạng những năm 1940, như Ca du kích, Ca sợi chỉ, Ca dân cày, Ca binh lính, Ca công nhân, Ca thiếu nhi... Đây là những bài giản dị, dễ hiểu, mộc mạc, mang phong vị thơ ca dân gian, có tác dụng tuyên truyền, cổ vũ nhân dân rất hiệu quả và thiết thực. Ngoài ra, còn có một số bài thơ khác thể hiện tinh thần lạc quan, tình yêu đất nước như Thượng sơn, Đăng Sơn, Nguyên tiêu, Báo tiệp, Tặng Bùi Công, Tức cảnh Pắc Bó, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy...; chùm bài thơ tặng đồng bào, thơ chúc tết, thơ thù tiếp, thơ tặng, những vần thơ ứng khẩu trong các bài nói chuyện... đều rất có giá trị.
Với việc UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, Việt Nam chúng ta đã có một Hồ Chí Minh hoạt động chính trị, hoạt động cách mạng, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc trên thế giới; đồng thời, Người còn là một nhà văn hóa lớn của Việt Nam và thế giới với văn hóa di sản đồ sộ. Trong đó, nhận xét Người là “nhà nghệ thuật lớn” thực sự rất xác đáng!
Trúc Giang
____________
[1] Đoàn Minh Tuấn, Bác Hồ - cây đại thọ, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1998, tr.31-32.
#TN